- Chữ hiếu qua ca dao Việt Nam
- và trong kinh điển Phật giáo
- Thích Nhật Từ
Bài thuyết trình của tác giả tại
câu lạc bộ Thanh Niên, TP. Hồ Chí Minh, ngày 12-7-1991
Theo truyền thống Phật giáo Bắc tông, hằng năm cứ vào
ngày rằm tháng 7, ngày chư tăng ni tự tứ, toàn thể tăng ni Phật tử noi
theo gương hiếu của đức Mục-kiền-liên, long trọng tổ chức đại lễ
Vu-lan-bồn, để tưởng nhớ và báo đáp công ơn sanh thành và dưỡng dục
của cha mẹ. Chính vì thế ngày vu-lan đã được xem là ngày Cha Mẹ trong
Phật giáo.
Trong ngày lễ tưởng niệm ngày hôm ấy, ai diễm phúc còn
đầy đủ song thân sẽ được cài lên áo một bông hồng đỏ. Những ai
không may mắn đã mất cha hoặc mẹ hoặc cả song thân sẽ được cài lên
áo một bông hồng trắng. Để trọng thể buổi lễ, người Phật tử đều
đình chỉ mọi công việc hằng ngày, đi lễ chùa, chúc thọ, cầu an hoặc
cầu siêu cho cha mẹ. Chư tăng ni tại các tự viện, tùng lâm sẽ thuyết
giảng về hiếu hạnh, sẽ tụng kinh Vu-lan, kinh Báo Ân Cha Mẹ. Ngoài ra, tăng
ni Phật tử còn làm lễ khánh tuế, mừng các bậc sư trưởng của mình
được thêm một tuổi đạo.
Ngày Vu-lan, ngày báo hiếu đã ăn sâu vào trong tâm khảm của
người Phật tử, vào lòng người Việt Nam và thật sự trở thành một sức
sống mảnh liệt, một nét văn hóa độc đáo, một nét đặc trưng cho tính
nhân bản của xã hội loài người. Hiếu được xem như một thứ tình cảm
thiêng liêng và cao đẹp nhất trong các thứ tình cảm của loài người. Hiếu
là chất liệu cho cuộc sống, là hương thơm cho đời, là hành trang vô
giá và không thể thiếu vắng ở bất kỳ người nào. Hiếu phản ánh đời
sống văn hóa và đạo đức của xã hội. Hiếu phân định nhân cách, tri
thức của con người. Hiếu là chất liệu sống muôn thuở. Nói đến hiếu
là nói đến cái gì cao đẹp nhất, thiêng liêng nhất đối với mọi người.
Mỗi xã hội, mỗi tôn giáo, mỗi chủ nghĩa đều có quan
niệm khác nhau về đạo đức, nhưng cùng đề cao giá trị văn hóa, đạo
đức của hiếu đạo là tuyệt vời. Để giới hạn phạm vi bài viết, người
viết xin trình bày chữ hiếu qua Ca dao Việt Nam, những lời ca dân gian của
một dân tộc thấm nhuần tình cảm hiếu nghĩa, và chữ hiếu trong kinh điển
Phật giáo, một tôn giáo dạy về chữ hiếu nhiều nhất, đầy đủ nhất
và đặc biệt nhất trong các tôn giáo của nhân loại.
I. Chữ hiếu qua Ca dao Việt Nam
Trong ca dao Việt Nam, chữ hiếu đóng một vai trò quan trọng
và nền tảng về đạo đức và luân lý xã hội. Nó góp phần giáo dục,
xây dựng một xã hội bình ổn và hạnh phúc. Trước nhất và quan trọng
hơn hết, ca dao nhấn mạnh đến công ơn trời biển và công đức sâu dày
của cha mẹ, một thứ công ơn khó mà diễn tả cho cùng:
- Anh ơi, em bảo anh này
- Công cha nghĩa mẹ cao dày chớ quên!
Với sự diễn tả xác đáng hơn, ca dao Việt Nam khẳng định
- Công cha nhơ núi thái sơn
- Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
- Một lòng thờ mẹ kính cha
- Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Ca dao Việt Nam đã diễn tả tình cha mẹ rất chính xác.
Cha thương con nhưng cứng rắn, nghiêm nghị nên được ví với sự sừng sửng
của núi Thái, một ngọn núi to lớn và cao vĩ. Mẹ thương con ngọt lịm dịu
dàng nên được sánh ví với suối nguồn chảy tuông êm ả, nhẹ nhàng, bất
tận. Ca dao Việt Nam còn nhấn mạnh đến nỗi cực nhọc chín tháng cưu
mang, ba năm bồng ẳm của người mẹ:
- Nhớ ơn chín chữ cù lao
- Ba năm nhủ bộ biết bao nhiêu tình.
Hay
- -- Nghĩa cha sanh cùng công mẹ dưỡng
- Thì ngày đêm tư tưởng chớ khuây
- Hai công đức ấy nặng thay
- Xem bằng bể rộng, xem bằng trời cao
- Kể từ lúc hãy còn thai dựng
- Đến những khi nuôi nấng giữ gìn
- Nặng nề chín tháng cưu mang
- Công sinh bằng vượt biển sang nước người.
- -- Ơn hoài thai to như bể
- Công dưỡng dục lớn tợ non
- -- Đội ơn chín chữ cù lao
- Sanh thành kể mấy non cao cho vừa.
- -- Công cha nghĩa mẹ cao dày
- Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
- Nuôi con khó nhọc đến giờ
- Trưởng thành con phải biết thờ song thân
- -- Công cha nghĩa mẹ cao vời
- Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta
- Nên người ta phải xót xa
- Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao!
Ngoài ra, ca dao còn diễn tả sự hy sinh của mẹ cho con cái
là vô cùng:
- Nuôi con chẳng quản chi thân
- Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn
- Biết lấy chi đền nghĩa khó khăn
- Lên non xắn đá xây lăng phụng thờ.
Đặc biệt ca dao còn xác quyết công lao cao dày của cha mẹ
là một sự thật, một thực thể tình người, mà những ai đã, đang và sẽ
có con cái sẽ cảm nhận chính xác nhất:
- -- Có con mới rõ sự tình
- Xưa kia thầy mẹ thương mình thế nao.
- -- Lên non mới biết non cao
- Nuôi con mới biết công lao mẫu từ.
- -- Nuôi con mới biết lòng cha mẹ
- Thấy loạn thì hay thuở Thuấn Nghiêu.
- (Nguyễn Trải)
Chính vì công lao sâu dày của cha mẹ là không cùng, ca dao
Việt Nam khẳng định vị trí của cha mẹ là vô song, không có gì có thể
sánh bằng. Một khi cha mẹ mất, con cái phải chật vật, đau khổ và dường
như mất cả ý nghĩa của cuộc đời:
- -- Còn cha gót đỏ như son
- Mai sau cha mất, gót con lấm bùn
- -- Còn cha còn mẹ thì hơn
- Mất cha mất mẹ như đờn đứt dây.
Trong các thứ tình cảm, ca dao khẳng định tình cảm giữa
mẹ con và con cái là cao quý nhất, vượt hơn tình yêu đôi lứa:
- Cha mẹ già thật đã khó tìm
- Đạo vợ chồng chẳng hiếm chi nơi.
Chính vì thế, còn có nỗi đau nào hơn nỗi đau khi cha mẹ
mất!
- -- Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
- Nhớ cha nhớ mẹ chín chiều ruột đau
- Chiều chiều ra đứng ngỏ sau
- Ngó về quê mẹ ruột đau như dần.
Hay tình cảm đối với cha mẹ còn sống nhưng trong cảnh
chia cách:
- Gió thúc cội thung nhánh tùng khua rúc rắc
- Nhớ cha mẹ già ruột thắc gan teo.
Ca dao còn sánh ví cha mẹ như Phật, mà theo kinh điển Phật
là đấng cao quý nhất trong ba cõi, là thầy của chư thiên và loài người.
Nghĩa là ca dao đã trân trọng đặt cha mẹ lên vị trí tôn quý nhất trong
tam giới:
- Gió đưa cành trúc la đà
- Cha mẹ còn sống Phật đà hiện thân.
Do sự tôn kính đó, ca dao đã dạy trước phải kính dưỡng
đức Phật-Cha mẹ trong nhà rồi sau mới kính dưỡng đức Phật ngoài đồng.
Trên cơ sở này, ca dao có quan điểm rằng sự đi tu với hình thức "cắt
ái từ thân, xuất ly gia đình" không còn là điều tiên quyết:
- Tu đâu cho bằng tu nhà
- Thờ cha kính mẹ cũng là chân tu.
Hay
- Lên chùa thấy Phật muốn tu
- Về nhà thấ mẹ công phu sao đành.
Tình cảm hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ đã trở
nên một thứ tình cảm gắn bó. Ca dao đã ví cha mẹ như chuối chín cây,
như xôi nếp ngọt, như đường mía lao, để làm ngọt lịm cuộc đời và
sự sống của con:
- -- Mẹ già như chuối chín cây
- Gió đưa mẹ rụng con rày mồ côi.
- -- Mẹ già như chuối ba hương
- Như xôi nếp một, như đường mía lau.
Và do vậy, phận làm con phải luôn kính cha thương mẹ:
- Nước chảy ra thương cha nhớ mẹ
- Nước chảy vào thương mẹ nhớ cha.
Tuy nhiên ca dao cũng tích cực lên án những hạng người
con bất hiếu, bỏ quên công ơn sanh thành dưỡng dục lao khổ của cha mẹ,
trở lại tính tháng đếm ngày với cha mẹ, khi phải nuôi nấng cha mẹ:
- -- Mẹ nuôi con bằng non bằng bể
- Con nuôi mẹ con kể từng ngày
- -- Mẹ nuôi con biển hồ lai láng
- Con nuôi mẹ tính tháng tính ngày.
Dĩ nhiên những hạng người vô ân bất hiếu như vậy sẽ
không nhớ đến sự khó nhọc và lao khổ của cha mẹ:
- Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
- Năm canh chày mẹ thức đủ trọn năm.
Mặt khác, ca dao cũng không quên nhắc đến những trang nam
tử, những thiện nữ nhân thành tâm hiếu dưỡng cha mẹ hết lòng, sớm
thăm tối viếng:
- Mẹ già ở túp lều tranh
- Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con.
Ca dao cũng khen ngợi những người con có hiếu thảo, tảo
tần chịu gian khó, hiếu dưỡng cha mẹ từng cái ăn cái uống, cho thỏa dạ
chân tình:
- Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi
- Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già.
Hay tình cảm thống thiết của người con chẳng quản giàu
nghèo, dưỡng nuôi cha mẹ, bằng tất cả những gì có được, dù phẩm vật
ấy có thô sơ, đam bạc:
- Dây bầu dây mướp cùng leo
- Sớm nuôi cha mẹ nghèo giàu sá chi.
Hoặc cảnh con cái chăm sóc cha mẹ một cách chu đáo cả
đêm lẫn ngày: khi cháo cơm, khi đau yếu và ngay cả những khi ra vào gặp
tôn nhan của mẹ:
- Cù lao đội đức cao dày
- Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng
- Khi ấm lạnh ta hầu săn sóc
- Xem cháo cơm thay thế mọi bề
- Ra vào thăm hỏi từng khi
- Người đà vô sự ta thì an tâm.
- (Nguyễn Trãi, Gia Huấn Ca)
Ca dao Việt Nam còn tin vào nghiệp báo luân hồi, tin vào sự
tái sanh, vào kiếp sống đời sau, tin vào những thiện nhân phước báo mà
con cháu làm để hồi hướng cho cha mẹ là có tác hưởng thật sự. Chính
hiếu hạnh đó đã cảm hóa tâm tính cha mẹ và cộng với phước báu của
con cháu đã tạo mà cha mẹ được nhẹ nhàng lúc mất, và sanh về thế giới
an lành, hạnh phúc hơn. Như vậy, ca dao cũng đã chịu ảnh hưởng tinh thần
hiếu thảo trong kinh điển Phật giáo:
- Đêm nằm niệm Phật Thích-ca
- Cầu cho cha mẹ kết hoa liên đài
- Về cảnh Phật thấy hoa khai
- Trầm luân chấm dứt, đáo lai niết-bàn.
Đồng thời ca dao còn tin vào quy luật nhân quả, ở đây
là nhân hiếu quả hiếu, nhân bất hiếu thì quả bất hiếu. Đây chính
là bài học thiết thực và có giá trị về chữ hiếu mà người Việt Nam
đã sống và thực hiện từ bao đời nay:
- Nếu mình hiếu với mẹ cha
- Thì con cũng hiếu với ta khác gì
- Nếu mình ăn ở vô nghì
- Đừng mong con hiếu làm gì hoài công.
Hay ấn tượng hơn qua hình ảnh ẩn dụ của những giọt nước
trước sau:
- Hiếu thuận sanh ra con hiếu thuận
- Ngỗ nghịch thì con có khác chi
- Xem thử trước thềm mưa xối nước
- Giọt sau giọt trước chẳng sai gì.
Nhờ có một nền tảng giáo dục luân lý đạo đức đặt
trên cơ sở hiếu nghĩa như vậy, xã hội Việt Nam, con người Việt Nam đã
xứng đáng với truyền thống:
- Làm người hiếu nghĩa đi đầu
- Hiếu cha hiếu mẹ việc gì không xong.
Trên nền tảng tôn thờ đạo hiếu thảo, xã hội Việt
Nam có thể được xem là một xã hội chuẩn mực về đạo đức hiếu thảo
và làm người. Tuy nhiên hiếu thảo theo quan niệm ca dao Việt Nam vẫn còn
nhiều hạn chế. Nó chủ yếu dạy con cái hiếu dưỡng song thân về mặt
vật chất, và hình như không chú trọng đến yếu tố hiếu dưỡng tinh thần
và đời sống đạo đức của cha mẹ, trong khi theo Phật giáo, hiếu dưỡng
quan trọng hơn là hiếu dưỡng tinh thần. Đây chính là lý do tại sao
chúng ta phải tìm hiểu chữ hiếu qua những lời kinh Phật dạy.
II. Chữ hiếu trong kinh điển
Phật giáo
Có một sự thật khi nghiên cứu Phật giáo, người ta phải
thừa nhận rằng đức Phật đặc biệt nhấn mạnh đến hiếu hạnh, lợi
ích của hiếu hạnh và làm thế nào để báo đáp hiếu hạnh có hiệu quả
cao và công đức lớn. Các kinh điển Phật giáo dạy về hiếu hạnh có thể
liệt kê sơ bộ sau đây:
-- Kinh Vu-lan-bồn nêu gương hiếu hạnh của đức Mục-kiền-liên,
cứu thoát mẹ ra khỏi cảnh giới u minh, nhờ vào đạo đức tập thể của
các bậc cao tăng và a-la-hán.
-- Kinh Báo Ân Cha Mẹ nói rõ công lao sanh thành, nuôi dưỡng
khó khăn của cha mẹ, và theo đó dạy cách báo đáp công ơn trời biển đó.
-- Kinh Thai Cốt và Kinh Huyết Bồn cũng có nội dung tương
tự như hai kinh trên nhưng đặc biệt nhấn mạnh công đức của cha mẹ.
-- Kinh Hiếu Tử dạy về các phương thức báo hiếu.
-- Kinh Tâm Địa Quán với phẩm thứ hai là phẩm báo ân, dạy
cách đền ơn cha mẹ của người xuất gia và người tại gia.
-- Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân có đến 2 phẩm nói
về hiếu hạnh của Phật và bồ-tát trong các đời sống quá khứ.
-- Kinh Địa Tạng kể về hiếu hạnh của bồ-tát Địa Tạng
và thông qua đó hướng dẫn cách đền ơn cha mẹ ở hiện đời cũng như
các đời sống quá khứ.
-- Sám Pháp Mục-kiền-liên dạy về cách sám hối và hướng
dẫn cha mẹ về chánh pháp của đức Phật.
-- Kinh Thiện Sanh hay Giáo thọ Thi-ca-la-việt (thuộc kinh điển
Pali) dạy về đời sống và các mối quan hệ đạo đức của xã hội
loài, trong đó có đề cập đến 5 nguyên tắc đạo đức của các bậc
cha mẹ đối với con cái và 5 nguyên tắc đạo đức của con cái đối với
cha mẹ.
-- Ngoài ra, những lời dạy về hiếu hạnh đã được đề
cập rải rác trong kinh Tăng Chi, thuộc kinh tạng Pali.
Còn nhiều kinh sách khác đề cập đến chữ hiếu ở góc
độ này hay góc độ khác. Có thể nói, chữ hiếu bàn bạc khắp kinh điển
Phật giáo đến nỗi người ta có thể phát biểu rằng kinh điển nhà Phật
là kinh dạy về hiếu, đọc kinh Phật giáo là để trở thành người con
hiếu thảo. Theo tinh thần lời Phật dạy, người con hiếu là người có
thể thành tựu nhiều hạnh lành khác, vì hiếu là nền tảng của muôn hạnh
lành, là cơ sở của nhân thừa, là nhịp cầu giải thoát. Để quán triệt
tinh thần hiếu thảo ấy, chúng ta lần lượt khảo sát các điểm trọng yếu
sau đây:
1. Biết ơn và đền ơn cha mẹ
là hạnh hiếu đáng khen
Trước nhất kinh điển Phật giáo khẳng định rằng người
biết ơn và đền ơn cha mẹ là một bậc chân nhân, là người sống
gương mẫu ở đời. Một người con được gọi là con hiếu thảo phải
là một con người như vậy:
"Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính
này sẽ được biết đến, đó là biết ơn và đền ơn đúng pháp."
(Kinh Tăng Chi I. 75)
Làm con mà không biết ơn cha mẹ hoặc biết ơn mà không lo
đền đáp công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ là người con bất hiếu.
Người như vậy sẽ bị xã hội lên án, đời sống đạo đức sẽ bị
suy giảm, và đời sống về sau sẽ bị thối đọa:
"Ai thành tựu thân làm ác với cha mẹ, lời nói ác đối
với cha mẹ, ý nghĩ ác đối với cha mẹ; không biết ơn, không trả ơn, sẽ
tương xứng rơi vào địa ngục và hiện đời sẽ bị đau khổ." (Kinh
Tăng Chi I. 637).
Kinh còn mô tả hạnh tri ân và đền đáp công ơn sanh thành
của cha mẹ là những gì cao quý nhất trên đời. Sự cao quý đó có thể
sánh với sự xuất hiện của đức Phật cũng như sự xuất hiện của chánh
pháp. Người tri ân và báo ân như vậy là người cao quý và hiếm có trên
đời:
"Sự xuất hiện của Như Lai bậc chánh đẳng giác khó
tìm được ở đời. Người hoằng truyền chánh pháp của Như Lai là khó
tìm được ở đời. Người tri ân và báo ân là khó tìm được ở đời."
(Kinh Tăng Chi I. 306)
Trong kinh Tương Ưng, đức Phật cũng nói đến vị trí của
người con hiếu thảo là vô song và hơn hết các loài động vật khác. Sự
vô song này được đức Phật sánh ví với sự vô song của Phật so với
các loài hai chân:
- Giữa các loài hai chân
- Chánh giác là tối thắng
- Trong các loài con cái
- Hiếu thuận là tối thắng.
- (Kinh Tương Ưng I. 8)
Kinh Pháp Cú khi đề cập đến các phạm trù hạnh phúc cũng
có nói đến sự hiếu kính cha mẹ là hạnh phúc tối thượng ở đời:
- Phúc thay, hiếu kính Mẹ
- Phúc thay, hiếu kính Cha!
- (Kinh Pháp Cú, kệ 332)
Kinh Tăng Chi còn cho biết sự hiếu dưỡng bồi công tích
đức cho cha mẹ là một trong những yếu tố chính yếu để được tái
sanh về các cõi trời. Chư thiên cõi trời 33 luôn khen tặng những người
con có hiếu bằng những lời chúc lành. Chính các vị thiên này cũng nhờ
vào hạnh hiếu thảo mà được sanh về thiên giới, làm giảm thiểu cảnh
giới A-tu-la:
"Phúc thay những người con hiếu kính cha mẹ, làm nhiều
công đức để hiếu kính cha mẹ, vì như vậy thiên chúng sẽ được sung
mãn và các A-tu-la sẽ bị giảm thiểu" (Kinh Tăng Chi I. 459-60).
Đối với kinh Hạnh Phúc, việc hiếu kính cha mẹ không chỉ
là một loại hạnh phúc mà còn là một thứ hạnh phúc tốt lành nhất
trong các hạnh phúc của con người:
- Sự phụng dưỡng mẹ cha
- Là hạnh phúc lớn nhất
Về sự liên hệ giữa hạnh hiếu và quả báo cõi trời,
đức Phật còn cho biết thiên chủ Sakka khi còn là con người do thọ trì bảy
giới trong đó hiếu kính cha mẹ đúng pháp là giới thứ nhất mà được
quả báo sanh làm Thiên vương Đế Thích.
- Ai hiếu dưỡng mẹ cha
- Kính trọng bậc gia trưởng
- Nói những lời nhu hòa
- Từ bỏ lời hai lưỡi
- Chế ngự lòng xan tham
- Là người con chân thật
- Nhiếp phục được phẫn nộ
- Với con người như vậy
- Chư thiên trời 33
- Gọi là bậc chân nhân.
Hình ảnh hiếu dưỡng mẹ và cha đúng pháp không chỉ được
gọi là bậc chân nhân, bậc thiện nhân, bậc cao quý, mà còn được sánh
ví ngang hàng với phạm thiên, với các bậc tiên sư. Những gia đình có
được những người con hiếu thảo như vậy được gọi là gia đình xứng
đáng được cúng dường và tán thán:
"Này các Tỳ-kheo, những gia đình nào mà con cái kính lễ
cha mẹ, những gia đình ấy được xem là ngang hàng với Phạm thiên, với
các bậc tiên sư và đáng được cúng dường." (Kinh Tăng Chi I. 147)
Để giải thích thỏa đáng lý do có sự so sánh ngang hàng
này, đức Phật dạy:
"Này các Tỳ-kheo, danh từ Phạm thiên, tiên sư, bậc đáng
được cúng dường là đồng nghĩa với cha mẹ. Vì cha mẹ đã đầu tư hầu
hết cuộc đời của mình vào công trình nuôi dưỡng, giáo dục và giới
thiệu con cái vào đời." (Kinh Tăng Chi I. 124).
Trong kinh Tương Ưng, đức Phật lại cho biết lợi ích hai
đời của hiếu hạnh: hiện đời thì được các bậc hiền thánh khen ngợi
và sau khi qua đời thì được sanh vào cảnh giới chư thiên:
- Người tu theo thường pháp
- Nuôi dưỡng mẹ và cha
- Chính do công hạnh này
- Mà các bậc hiền thánh
- Trong đời thường tán thán
- Khi chết được sanh thiên
- Hưởng an lạc thù thắng
- (Kinh Tương Ưng IB. 203)
Về quả phước mà người con hiếu thảo sẽ gặt hái,
kinh Hạnh Phúc còn mô tả kỷ hơn, chi tiết hơn, như đoạn trích dưới đây:
"Người con chí hiếu dù gặp tai nạn như nạn nước hồng
thủy, địa chấn (động đất) sẽ được thoát hiểm một cách an toàn. Nếu
giàu thì trọn hưởng gia tài, không bị nghịch cảnh, chướng duyên và nội
nghịch ngoại thù. Nếu nghèo thì đời sống trong sạch, thanh nhàn, trời
người yêu mến, danh thơm xông khắp, không bị nợ nần, khổ sở, ít bệnh
tật, được tăng trưởng tuổi thọ. Trong hiện tại thường được các bậc
hiền trí ngợi khen, kết giao thân thiện. Sau khi chết được sanh thiên."
2. Tại sao chúng ta phải hiếu
kính cha mẹ?
Để trả lời câu hỏi thông thường nhưng quan trọng này,
kinh điển Phật giáo đưa ra ba lý do. Thứ nhất về phương diện thai dựng,
cha mẹ đã khổ cực cho chúng ta trong suốt chín tháng cưu mang và ba năm bồng
ẳm. Thứ hai về phương diện giáo dục, cha mẹ đã nuôi nấng chúng ta trở
thành người tốt trong xã hội, giới thiệu chúng ta vào đời. Thứ ba là
phương diện đạo đức, cha mẹ đã hướng dẫn con cái đến con đường
chánh pháp của đức Phật.
Về phương diện cực khổ trong thời
gian thai dựng
Chín tháng thai dựng là thời gian người mẹ phải chịu
nhiều đau khổ và bất tiện nhất. Kinh Phật có nhiều đoạn mô tả rất
là thống thiết, chân tình. Ba năm bú mớm là thời gian mà mẹ và cha bận
rộn và hy sinh cho con nhiều nhất. Sau đây là vài đoạn trích cho thấy điều
đó:
Này A-nan, Như Lai xem chúng sanh dầu được làm người
nhưng lòng còn ngu muội, chẳng nghĩ nhớ đến công đức của cha mẹ như
non bể, không cung kính, không hiếu thảo. Mẹ mang thai con trong vòng mười
tháng, ngồi đứng không yên như mang gánh nặng, ăn uống phải kiêng cử,
chẳng còn ngon miệng. Ngày tháng thoi đưa, đến kỳ sanh nở, mẹ chịu
đau đớn mọi bề. Khi sanh được thân này, mẹ phải ăn đắng nuốt cay,
nhả bùi mớm ngọt, nâng nui, dưỡng dục, giặt giũ dơ dáy, không nề gian
khổ. Những lúc cơ hàn, tâm khổ, mẹ nằm chỗ ướt, dành chỗ ráo cho
con. Rồi ba năm bú mớm, nâng niu, dạy bảo đủ điều, cho con ăn học."
(Kinh Báo Trọng Ân Cha Mẹ, Sen Vàng xuất bản, 20-21)
Sám Pháp Mục-Liên thì chép:
Cha mẹ sanh ta, mang thai mười tháng, khổ sở rất nhiều,
công ơn chan chứa, nặng như núi Thái, đi lại khó nhọc, ngồi đứng không
yên, tánh mạng bấp bênh, như đèn trước gió. Ăn uống không ngon, ngư
người đau nặng, thân hình gầy yếu, tinh thần bải hoải. Đến ngày mãn
nguyệt, khổ không thể nói, chẳng kể đến mình, mệt nhọc bao nhiêu, chỉ
mong cho con sanh được vuông tròn. Bởi thế cho nên, ngày nay chúng ta phải
nghĩ đến công đức sâu dày của cha mẹ mà lo báo ân. (Sám Pháp Mục-Liên,
135-6).
Ở một đoạn khác, Sám pháp này còn diễn tả:
Ơn mẹ khó báo thế mà người đời chỉ ham vui chơi, không
nghĩ công mẹ, chẳng thiết báo đền. Không nhớ lúc sinh, mẹ như người
ốm. Khi mới mang thai, tinh thần mỏi mệt, ăn uống không ngon, sợ đau thai
con, suốt ngày lo lắng, chịu bao khổ não, không thể nói hết. (Sám Pháp Mục-Liên,
139).
Trong kinh Tương Ưng, đức Phật đưa ra hình ảnh so sánh rất
ví von nhưng vô cùng có ý nghĩa:
"Này các Tỳ-kheo, sữa mẹ mà các thầy đã uống trong
suốt quá trình luân hồi nhiều hơn nước trong bốn biển." (Kinh
Tương Ưng IIB. 117).
Vì cha mẹ mà chúng ta được sanh ra, có được tất cả.
Do đó, làm con phải thờ kính cha mẹ:
"Này bà-la-môn, thế nào là lữa đáng cung kính? Cha mẹ
là lữa đáng cung kính, vì từ cha mẹ, chúng ta được tạo nên. Do đó cha
mẹ là lữa đáng cung kính, tôn trọng và cúng dường." (Kinh Tăng Chi
III. 31).
Về phương diện giáo dục con cái
Cha mẹ phải vất vả nuôi nấng, dưỡng dục con, lo bạn bè,
cho ăn học, lập gia thất, chạy thầy lo thuốc khi con đau ốm, chẳng quản
tấm thân lao khổ. Những đoạn kinh dưới đây cho thấy công lao dưỡng dục
của cha mẹ đối với con cái:
Cha mẹ dạy điều lễ nghĩa, cho con ăn học, giới thiệu
nghề nghiệp, đưa đón đi về, cần lao chăm chút, chẳng hề kể công.
Trái trời lỡ nắng, tuần trăng cuối gió, bệnh nọ chứng kia, chạy thầy
lo thuốc, một mình lo lắng, chạy ngược chạy xuôi, năm canh vò võ, khi bệnh
con khỏi, lòng mẹ mới yên, mong con khôn lớn, con thảo con hiền. (Kinh Báo
Trọng Ân Cha Mẹ, 21-22).
Ở một đoạn khác theo thể kệ thơ, công ơn giáo dưỡng
của cha mẹ được mô tả đầy đủ như sau:
- Mẹ trải bao gian khổ
- Công lao tựa núi trời
- Bồng bế cùng nuôi dưỡng
- Mong sao con lớn khôn
- Nhường cơm cùng xẻ áo
- Mẹ đói rách cũng vui
- Khôn lớn tìm đôi lứa
- Gây dựng cho nên người
- Công cha cùng đức mẹ
- Cao siêu tựa vực trời
- Mẹ già hơn trăm tuổi
- Vẫn thương con tám mươi
- Bao giờ ân oán hết
- Tắt nghỉ vẫn chẳng thôi.
- (Kinh Báo Trọng Ân Cha Mẹ, 19-20)
Trong kinh Tăng Chi, có đoạn sau đây cũng mô tả cùng một
nội dung:
Cha mẹ là đấng đáng được cúng dường. Vì cha mẹ đã
giúp đỡ con cái rất nhiều: nuôi chúng lớn, dưỡng dục nên người và
giới thiệu chúng vào đời. (Kinh Tăng Chi I, 147).
Một đoạn khác trong kinh điển Pali đó là kinh Thiện Sanh
hay còn gọi là kinh Thọ Giáo Thi-ca-la-việt còn đề cập đến năm công
ơn khác của cha mẹ:
Cha mẹ thương tưởng con cái theo năm cách: ngăn chận con làm
việc ác, khích lệ con làm điều thiện, dạy cho con nghề nghiệp, lập hôn
nhân xứng đáng cho con và trao của thừa tự đúng thời. (Trường bộ Kinh
II, Đại Tạng Kinh Việt Nam, tr. 542).
Về phương diện hướng dẫn con vào
chánh pháp
Đây là phương diện quan trọng và quyết định đời sống
đạo đức và trí tuệ của con cái. Chính từ phương diện này, hiếu hạnh
trong Phật giáo đã vượt trội hơn hiếu hạnh theo quan niệm thông thường.
Tương tự, ở đây, chúng ta thấy vai trò của cha mẹ là vô song trong việc
hướng dẫn con cái theo con đường chánh pháp của Phật. Về điều này,
kinh Phân Biệt và Đại Phương Tiện Phật Báo Ân ghi:
Ta trải qua nhiều kiếp tinh tấn đến nay mới thành Phật
toàn là công ơn của cha mẹ ta. Vậy nên người học đạo không thể
không tinh tấn hiếu thảo cha mẹ."
Kinh Tăng Chi còn nêu rõ bốn cẩm nang đạo đức đắc nhân
tâm là các tiêu chí mà các bậc cha mẹ nên giáo dục cho con của mình:
- Bố thí và ái ngữ
- Lợi hành và đồng sự
- Đối với bốn pháp này
- Cha mẹ dạy cho con
- Khéo xử sự ở đời
- Chỗ này và chỗ kia
- Như vậy thật tương xứng
- Đạt được an lạc lớn
- (Kinh Tăng Chi I. 387)
Mục Liên Sám Pháp cũng nêu ra tiêu chí giáo dục chánh
pháp cho con như sau:
Khi con lớn khôn, hiểu biết việc đời, hướng đạo cho
con, hoặc cho xuất gia, tu học đạo pháp, trở thành giải thoát. Ân đức
như thế thật khó đáp đền. (Sám Pháp Mục-Liên, 127).
3. Đền ơn cha mẹ bằng cách
nào?
Về phương thức báo hiếu, một lần nữa những lời dạy
của Phật tỏ ra chu đáo và toàn diện hơn các tôn giáo và triết thuyết
khác. Theo tinh thần lời Phật dạy, người Phật tử sẽ đền ơn cha mẹ
trên hai phương diện vật chất và tinh thần, tương thích với chánh pháp.
Báo hiếu về phương diện vật chất
Trước nhất những người con nên báo đáp công ơn sanh thành
của cha mẹ bằng của cải vật chất, tiền bạc, sự chăm sóc, thăm viếng
và lòng thương kính. Nuôi dưỡng cha mẹ bằng tất cả khả năng của mình.
Dĩ nhiên trong khi đền đáp công ơn của cha mẹ, người con hiếu thảo không
nên hiếu dưỡng với ý niệm kể công "tính tháng tính ngày" hay
"kể lể từng ngày" mà phải nuôi dưỡng cha mẹ với bầu nhiệt
huyết của sự kính thương và lòng hãnh diện, vì người Phật tử sẽ nhận
thức được rằng "không có thứ hạnh phúc nào to lớn và quý báu cho
bằng thứ hạnh phúc khi cha mẹ còn sống với ta." Cha mẹ là niềm
phúc đức và niềm an lạc cho con cái. Cha mẹ là một nửa hồn và máu huyết
của con cái. Cha mẹ đã đóng góp đời mình cho sự trưởng thành của con
cái. Cha mẹ là tất cả, là của con và vì con. Do đó, làm con hiếu thảo
phải phụng dưỡng và kính thờ cha mẹ đúng pháp.
Một điểm đặc biệt mà chúng ta cần lưu ý là phương thức
đền đáp công ơn cha mẹ về phương diện vật chất rất được xem trọng
trong Phật giáo. Chính từ phương thức này chúng ta mới có thể đánh giá
một cách thực tế thế nào là một người con hiếu thảo đúng nghĩa.
Trong kinh Phật dạy, mọi tài sản vật chất mà con cái đền đáp cho cha mẹ
phải là những thứ tài sản hợp pháp, chân chính, phát sanh từ đời sống
chánh mạng và chánh nghiệp. Người con nuôi dưỡng cha mẹ bằng các nghề
bất chánh, vi phạm pháp luật, tổn thương hạnh phúc của người khác hẳn
không phải là cách báo hiếu có ý nghĩa và nhất là có thể vô tình gián
tiếp đưa cha mẹ vào vòng ảnh hưởng của một cộng nghiệp bất thiện
và tội lỗi. Cách hiếu dưỡng cha mẹ như vậy thật chất là hại cha mẹ,
chứ không phải là hiếu dưỡng theo lời Phật dạy.
Trong kinh Dhananjani, tôn giả Xá-lợi-phất thay lời đức Phật
giải thích cho bà-la-môn này về cái sai và cái đúng, cái nên làm và cái
không nên làm trong vấn đề phụng dưỡng cha mẹ:
Này Dhananjani, người con hiếu thảo không nên vì cha mẹ
mà làm các điều phi pháp, bất chánh. Vì người làm như vậy sẽ bị quỹ
sứ kéo vào địa ngục. Trước sự phán xét của nhân quả, người ấy không
thể vịn lý vì muốn cho cha mẹ sung sướng, vui lòng, để bào chữa cho
mình là vô tội. Hành động như vậy sẽ bị thác đọa địa ngục dù nó
có khóc than hay cha mẹ nó có van xin hay kể lể. (Kinh Trung Bộ II. 188A).
Chính vì thế chúng ta thấy hành động hiếu thuận, hiếu
dưỡng của người con chí hiếu phải được thiết lập trên đạo đức
nhân quả. Người con hiếu chỉ làm những gì thật sự có lợi cho cha mẹ
và có lợi cho mình mà không gây bất cứ tổn hại nào cho tha nhân. Hành
vi hiếu thảo mà không hội đủ tiêu chí này không thể gọi là hiếu đúng
nghĩa. Hiếu hạnh trong đạo Phật được đặt trên định hướng đạo đức
và nhân quả. Do đó, quả báo của hiếu hạnh sẽ là sự an lạc từ hành
vi báo hiếu chân chánh, làm cho cha mẹ hoan hỷ, và hạnh phúc thật sự.
Tiêu chí báo hiếu đó được đoạn kinh dưới đây mô tả thật cô đọng
và đủ nghĩa:
Này Mahanam, người con hiếu với những tài sản mà mình đã
nỗ lực thâu hoạch được, do sức mạnh của đôi tay, bằng những giọt
mồ hôi đổ ra một cách hợp pháp, cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng
dường cha mẹ với thiện ý thì sẽ được cha mẹ hoan hỷ, thương tưởng
và hằng cầu mong cho con được sống lâu, mạnh giỏi. Này Mahanam, người
con hiếu được cha mẹ hoan hỷ, thương tưởng và mong cầu như vậy thì
gia đình ấy chắc chắn sẽ thịnh vượng, không bao giờ bị suy giảm.
(Kinh Tăng Chi III. 69)
Trong rất nhiều kinh, đức Phật luôn luôn giáo dục cảnh
giác mọi người không nên chỉ vì lý do phụng dưỡng cha mẹ mà tác tạo
các nghiệp phi pháp, bất chánh, tổn hại mình và người. Đức Phật cũng
thường nhắc đi nhắc lại rằng sự hiếu kính đúng nghĩa có giá trị,
có an lạc phải là sự hiếu kính trên cơ sở của các hành vi và nghề
nghiệp chân chánh, phù hợp với luật pháp xã hội. Với cách báo ân bằng
đời sống chánh mạng và chánh nghiệp như vậy, đức Phật mới tán
thán, khuyến khích:
- Người nào theo thường pháp
- Nuôi dưỡng mẹ và cha
- Chính do công hạnh này
- Đối với cha và mẹ
- Nhờ vậy bậc hiền thánh
- Trong đời này tán thán
- Sau khi chết được sanh
- Hưởng an lạc chư thiên
- (Kinh Tương Ưng I. 225)
Ở một đoạn kinh khác, đức Phật cũng huấn thị tương
tự. Người con hiếu thảo đúng pháp phải tinh thấn, dốc lòng hiếu kính
cha mẹ và nhờ nhân hiếu dưỡng này khi qua đời sẽ được thác sanh về
trời Tự Tại Quang:
- Thờ cha mẹ đúng pháp
- Buôn bán đúng, thật thà
- Gia chủ không phóng dật
- Được sanh Tự Quang thiên
- (Sutanipana, kệ 401)
Trong kinh Thọ giáo Thi-ca-la-việt, đức Phật đã nêu ra năm
tiêu chí đạo đức phù hợp với chánh pháp mà một người con hiếu thảo
cần phải thực hiện để đền đáp công ơn sanh thành và dưỡng dục của
cha mẹ. Năm tiêu chí đó như sau:
Hiếu dưỡng cha mẹ đúng pháp, làm tròn bổn phận con
cái, giữ gìn gia phong và truyền thống, bảo vệ tốt các tài sản thừa tự
và chu đáo tang lễ khi cha mẹ qua đời. (Trường Bộ Kinh II, Đại tạng
kinh Việt Nam, tr. 542).
Nói một cách khác, theo đức Phật, người con hiếu thảo
đền ơn cha mẹ bằng đời sống đạo đức của mình. Sự báo hiếu đó
phải bao gồm vật chất lẫn tinh thần. Bởi lẽ mục đích của cuộc sống
nhân sinh không chỉ phải là có được chén cơm manh áo mà thôi đâu. Người
ta phải cần đến chân lý, đạo đức và đời sống tinh thần như cây cỏ
cần ánh sáng, con người cần không khí để sống vậy. Do đó báo hiếu
chỉ đơn thuần về phương diện vật chất sẽ có giá trị giới hạn so
với báo hiếu về phương diện tinh thần:
Hiện tiền đại chúng hãy nên biết rằng, ân đức cha mẹ
không bến không bờ, thực khó đáp đền. Dù trăm nghìn đời nghiền thân
làm vị đề hồ dâng cúng cho cha mẹ cũng không báo đáp hết công ơn cha
mẹ. Nếu lại có người dâng các thức ăn, trăm vị ngon ngọt, dâng các
áo mặc, thuốc thang đầy đủ, suốt ngày lễ lạy, cúng dường cha mẹ
cũng không báo đáp được công ơn dưỡng dục. (Sám Pháp Mục-liên, 141).
Kinh Hiếu Tử dạy hiếu về vật chất mà thôi chưa phải
là hiếu theo tinh thần Phật dạy:
Con nuôi cha mẹ, dâng thức ăn quý, ngon miệng cha mẹ, hòa
nhạc du dương, vui tai cha mẹ, sắm áo lụa là, mát thân cha mẹ, vai cõng
cha mẹ đi khắp thiên hạ, tuy làm như thết chưa phải là hiếu.
Tương tự, kinh Tăng Chi thuộc kinh tạng Pali cũng nêu rõ giới
hạn của việc báo đáp cha mẹ bằng đời sống vật chất:
Có hai hạng người, này các tỳ-kheo, ta nói không thể trả
ơn được đó là mẹ và cha. Nếu một bên vai cõng cha, một bên vai cõng mẹ,
làm như vậy suốt đời vừa đấm bóp hầu hạ, và dù tại đó, cha mẹ
có khạc nhổ tiểu tiện đại tiện, cũng chưa đủ đền ơn cha mẹ. (Kinh
Tăng Chi I. 75).
Trong kinh Báo Trọng Ân Phụ Mẫu, đức Phật đưa ra nhiều
so sánh để nhằm khẳng định sự việc báo ơn cha mẹ bằng vật chất, dù
là đúng pháp, vẫn chưa trọn nghĩa hiếu tình. Dưới đây là vài đoạn
trích tiêu biểu:
Ví có kẻ nào hai vai kiệu cõng cha mẹ đi chơi suốt cả mọi
nơi trên rừng dưới biển, hai vai nặng trể mòn cả đến xương, máu chảy
cùng đường, không hề ăn hận. Cho dù như vậy cũng chưa báo đáp được
công đức cha mẹ kể trong muôn một.
Ví lại có người khi gặp đói kém, cắt hết thịt mình,
dưỡng nuôi cha mẹ, khỏi lúc nguy nan, riêng mình cam chịu trăm ngàn muôn
kiếp để báo thâm ân, chẳng được một phần kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm ngàn kiếp tự tay cầm dao
khoét đôi mắt mình, luyện làm thang thuốc chữa bệnh mẹ cha như thế
cũng là chưa trả được ân kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm ngàn kiếp vì tội mẹ cha, trăm
nghìn vòng đao, băm vằm thân thể, thịt nát xương tan như thế cũng chưa
trả được ân đức cha mẹ kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm ngàn kiếp vì báo ơn mẹ, lấy
mình đốt đèn cúng dường chư Phật như thế cũng chưa trả được ân kể
trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm ngàn kiếp vì bệnh mẹ cha,
đập xương lấy tủy để làm thang thuốc chữa bệnh cho cha mẹ như thế
cũng chưa trả được ân kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm ngàn kiếp vì cứu mẹ cha, nuốt
viên sắt nóng sém cả mình như thế cũng chưa trả được ân đức cha mẹ
kể trong muôn một. (Trang 28-30)
Các trích dẫn trên cho thấy đạo Phật ngoài việc hướng
dẫn con cái hiếu dưỡng cha mẹ về đời sống vật chất, cần phải biết
cách hiếu dưỡng cha mẹ về đạo đức và tinh thần. Nói khác hơn, hiếu
thảo về vật chất là thứ yếu trong khi hiếu dưỡng về tinh thần là trọng
yếu nhất.
Hiếu thảo về phương diện tâm thức
hay tinh thần
Về phương diện này, trước nhất, người con hiếu thảo
phải tự nỗi lực gột bỏ các bợn nhơ của tâm lý như tham lam, sân hận,
si mê, từ bỏ sự giết chóc, gạt người cướp của, không quan hệ tình
cảm bất chánh, không nói láo, không uống rượu và các chất kích thích tố
có hại cho sức khỏe và tâm trí, nỗ lực làm các việc thiện đem lại lợi
ích cho mình và tha nhân. Nói chung hiếu thảo trước nhất là biết cách
hoàn thiện nhân cách đạo đức cho chính mình, để cha mẹ an tâm, hoan hỷ
và hãnh diện:
Làm con hiếu thảo theo lời kinh dạy là cố gắng tu trì,
diệt trừ tội chướng, thanh tịnh hành vi, cha mẹ hiện tiền sống lâu trăm
tuổi, tổ tiên quá khứ rũ sạch oan khiên. (Sám Pháp Mục-Liên, 46).